Saturday, October 1, 2011

ALEXANDRE DE RHODES CÓ PHÁT MINH RA CHỮ QUỐC NGỮ?(*)

ALEXANDRE DE RHODES
CÓ PHÁT MINH RA CHỮ QUỐC NGỮ? (*)

Alain Guillemin
(TS. Viện Nghiên cứu Xã hội học Địa Trung Hải, Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp)

Bản dịch của Ngô Tự Lập 

Tháng 5 năm 1941, chính quyền thực dân dựng một đài tưởng niệm tại một góc nhỏ phía Đông Bắc hồ Hoàn Kiếm, cạnh đền Bà Kiệu. Đó là một tấm bia đá cao 1,7m, rộng 1,1m, dày 0,2m, trên có khắc, bằng các thứ chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp, công đức của linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes. Tin này được tờ «Tân Tri», số 13 Tháng 6 năm 1941, thông báo như sau: "…Ông Alexandre de Rhodes đã sống lại với dân Hà Thành trong lễ khánh thành đài kỷ niệm ông. Buổi lễ được tổ chức trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động…Ngày nay, chữ Quốc ngữ được coi là rường cột của tiếng ta, đó là lý do vì sao chúng ta không thể không cảm ơn chân thành người đã phát minh ra nó, ông Alexandre de Rhodes." (Le courrier du Viêt Nam)


Tuy nhiên, sự tôn vinh đối với giáo sĩ dòng Tên nổi tiếng không thể là thứ cây có thể che rừng. Ngoài Alexandre de Rhodes, điều cần phải làm rõ là vai trò của những người truyền giáo đối với ngôn ngữ học. Thật vậy, ở Việt Nam, cũng như ở phần lớn các nước họ đến truyền giáo, họ không chỉ giới hạn vào việc thuyết giảng và phiên dịch lời Thiên Chúa. Họ còn lập nên những cột mốc quan trọng không thể bỏ qua trong lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp và ngữ nghĩa tiếng Việt.

Xin trở lại với Alexandre de Rhodes. Ông có "phát minh" chữ Quốc ngữ hay không? Cho dù vai trò của ông là nổi bật đi chăng nữa, chúng ta cũng phải thấy rằng ông chỉ là một mắt xích trong một sợi xích. Chúng tôi sẽ chứng minh luận điểm của mình theo ba phần. Sau khi điểm lại một cách vắn tắt cuộc đời và những chuyến đi của Alexandre de Rhodes, chúng tôi sẽ liệt kê những đóng góp chính của ông qua tác công trình từ điển học cùng vai trò của những người tiền bối, những linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha. Phần thứ ba sẽ phân tích quá trình phổ biến của chữ Quốc ngữ với tư cách một hệ thống ký âm tiếng Việt.

1. Một kẻ phiêu du đa ngữ

Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon, ngày 15 tháng 3 năm 1591, trong gia đình một nhà buôn tơ lụa gốc gác từ làng Calatayud xứ Aragon. Những người Marranos này chạy trốn Toà án dị giáo và đến tị nạn tại Avignon, khi đó là đất của Giáo Hoàng và tiếp nhận người Do Thái. Giống như nhiều người đứng đầu các gia đình Do Thái cải đạo sang Công giáo, cha của Alexandre đổi họ từ Rueda thành Rode, sau thành de Rode và cuối cùng là de Rhodes. Năm 1609, khi 18 tuổi, Alexandre de Rhodes đến Roma. Ngày 14 tháng 4 năm 1612 ông gia nhập Compagnie de Jésus (Hội Ái hữu Thiên Chúa). Tại đó, ông trau dồi kiến thức về các ngôn ngữ cổ (Latin, Hy Lạp và Do Thái), học tiếng Italia và toán học.

Ông dự định đi truyền đạo ở Nhật Bản, và tháng 10 năm 1618 rời Roma đến Lisbon, bấy giờ là cửa biển chính vào châu Âu của những người Đông Ấn. Trong khi chờ lên đường, ông học tiếng Bồ Đào Nha. Ngày 04 tháng 4 năm 1619, ông khởi hành trên chiếc tàu "Thánh Thérèse" để đến Goa. Trong số bốn trăm hành khách trên tàu còn có những nhà truyền giáo dòng Tên khác như Jérôme Majorica, tác giả nhiều văn bản Kitô giáo viết bằng chữ Nôm (thứ chữ Việt lấy cảm hứng từ chữ tượng hình Trung Quốc), nhà truyền giáo ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Con tàu vượt qua mũi Hảo Vọng ngày 20 tháng 7 năm 1619 và đến đảo Goa ngày 9 tháng 10 cùng năm. Ở đó, Alexandre de Rhodes được tiếp đón bởi các giáo sĩ dòng Tên đã định cư ở Goa từ khi Francis Xavier cập bến vào năm 1542. Ông lưu lại hai năm rưỡi tại Goa và Salsette, nơi ông bị ốm nặng. Tại đó, ông gặp giáo sĩ dòng Tên người Pháp Etienne de la Croix người đã dạy ông ngôn ngữ địa phương: tiếng Kanara hay còn gọi là Canarin. Ngày 12 tháng 4 năm 1622, ông lại tiếp tục hải trình đến Nhật Bản. Ông đến Malacca ngày 28 tháng 7 năm 1622 và phải chờ đợi gần chín tháng trước khi lại có thể tiếp tục ra khơi.

Ngay sau khi đến Macao ngày 29 tháng 5 năm 1623, ông bắt đầu học tiếng Nhật. Nhưng do các cuộc đàn áp Kitô giáo ở Nhật Bản tăng lên và nước này ngày càng bế quan tỏa cảng kể từ năm 1612, cấp trên quyết định chuyển ông đến một xứ khác: Đại Việt, nơi các cha cố Francesco Buzomi (1576-1639) và Diego Carvalho đã lập một hội truyền giáo (mission) từ năm 1615 tại Turan (Đà Nẵng).

Sau khi trải qua 18 tháng giữa Ma Cao và Quảng Đông, de Rhodes cùng năm nhà truyền giáo dòng Tên khác, trong đó có Gabriel de Matos, cập cảng Faifo (Hội An), một hải cảng lớn của phần đất mà ông gọi là Cochinchine (Nam Kỳ), ở phía namTuran. Đây là một trung tâm kinh tế lớn, giao thương với Nhật Bản và Bồ Đào Nha. Ông đến vào tháng 3 năm 1626 và trong vài tháng đã học tiếng Việt đủ để giảng đạo. Ngày 12 tháng 3 năm 1627, cùng giáo sĩ dòng Tên Pedro Marques, Alexandre de Rhodes đến Bắc Bộ. Ông được bề trên cử đi giúp đỡ giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti vốn gặp khó khăn trong việc học tiếng Việt. Nhà thờ đầu tiên ở Bắc Bộ được xây dựng gần Thanh Hóa. Tuy nhiên, việc giảng đạo chẳng bao lâu bị gián đoạn vì xung đột, lý do là các nhà truyền giáo phản đối chế độ đa thê và giới quan lại lan truyền tin đồn rằng họ là gián điệp.Alexandre de Rhodes bị quản thúc tại Hà Nội vào tháng Giêng 1630, sau đó bị Chúa Trịnh Tráng, dưới áp lực của các vương phi, trục xuất vào tháng 5. Không thể quay lại Nam Kỳ, nơi còn bất lợi hơn đối với các Kitô hữu, bởi họ có thể bị nghi là gián điệp của Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes trở lại Macao, nơi trong vòng gần 10 năm ông dạy thần học luân lý.

Giữa 1640 và 1645, de Rhodes dẫn đầu bốn chuyến đi đến Nam Kỳ (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1640; từ tháng 12 năm 1640 đến tháng 7 năm 1641; từ tháng 1 năm 1642 đến tháng 9 năm 1643; từ tháng 1 năm 1644 đến tháng 7 năm 1645). Hầu hết thời gian, ông phải làm việc bí mật vì sự thù ghét của chính quyền địa phương. Bị trục xuất khỏi Nam Kỳ ngày 3 tháng 7 năm 1645, ông đến Macao hai mươi ngày sau đó. Để xin thêm trợ giúp của Tòa Thánh, Hội truyền giáo Châu Á (Missions d'Asie) đề nghị Alexandre de Rhodes đi Roma. Trước khi đi, ông dạy tiếng An Nam cho những người kế nhiệm là Carlo della Roca và Metello Sacano.

Rời Macao ngày 20 tháng 12 năm 1645 cùng một Kitô hữu trẻ người Trung Quốc, mãi đến ngày 27 tháng 6 năm 1649, sau nhiều trắc trở ông mới đến được Roma. Tại Roma, ông mô tả cho Vatican tình hình của Giáo Hội ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ và cầu xin Vatican hỗ trợ thành lập hội truyền giáo thuộc Propaganda Fide (Cơ quan Tuyên truyền Đức tin). Ông biện hộ cho việc hình thành giới giáo sĩ địa phương và vận động bổ nhiệm một giám mục in partibus (giám mục giữa lương dân) cho Nam Kỳ và Bắc Kỳ, nhằm đối chọi lại padroado (sự bảo hộ) của Bồ Đào Nha đang thống trị ở đó về tôn giáo và chính trị.

Ông rời Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 với nhiệm vụ do Cơ quan Tuyên truyền giao phó là tìm người và kinh phí cần thiết để hoàn thành sứ mệnh của mình. Ông đi Piedmont và Thụy Sĩ, sau đó đến Paris vào tháng 1 năm 1653. Tại đây ông gặp Cha Jean Bagot, một giáo sĩ dòng Tên có quan hệ rất rộng trong giới cầm quyền, người từng làm lễ xưng tội cho vua Louis XIV.Ông tuyển mộ trong số các môn đệ của Cha Bagot một số tình nguyện viên đi Bắc Kỳ và Nam Kỳ, đặc biệt trong đó có François Pallu, người sẽ là một trong ba vicaires apostoliques (khâm mạng tòa thánh) được Giáo Hoàng bổ nhiệm năm 1658 cho các sứ mệnh ở châu Á, hành động khởi đầu cho việc thành lập Missions Étrangères de Paris (MEP, Hội truyền giáo hải ngoạiParis). Mặt khác, Compagnie du Saint-Sacrement (Hội Ái hữu Saint-Sacrement), được Anne d'Autriche, Saint Vincent de Paul và Bossuet hỗ trợ, cung cấp kinh phí cần thiết dự án của Alexandre de Rhodes. Nhưng dự án này có nguy cơ gây bất hòa giữa Giáo Hoàng, vua Bồ Đào Nha và Compagnie de Jésus. Bị thất sủng, ông được gửi đến Ba Tư vào tháng 11 năm 1654, nơi ông nhanh chóng học ngôn ngữ địa phương. Ông qua đời tại đây vào tháng 11 năm 1660.

Những chặng dừng chân trên các hành trình là cơ hội để Alexandre de Rhodes học ngoại ngữ. Alexandre de Rhodes biết 12-13 thứ tiếng: ngoài tiếng Pháp và tiếng Provencal, những thứ tiếng mẹ đẻ, ông còn biết các thứ tiếng Latin, Hy Lạp, Italia và có lẽ cả tiếng Do Thái, tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Canarin, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Tư và tiếng Việt, tất cả "ông gần như đều thông thạo." (Cadière, 1915, tr. 239) Alexandre de Rhodes là người khiêm tốn. Đến Việt Nam, ông thú nhận sự lúng túng của mình: "Thú thật là khi tôi đến Nam Kỳ và nghe tiếng nói của người bản địa, đặc biệt là phụ nữ, tôi cảm thấy như nghe tiếng chim hót líu lo và tôi mất hết hy vọng có ngày học được thứ tiếng ấy." (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 79). Ông khiêm tốn, nhưng thật ra ông có năng khiếu học ngoại ngữ "dễ dàng một cách thần kỳ." (Cadière, 1915, tr. 239). Ông không chậm trễ trong việc làm chủ thứ tiếng như chim hót líu lo ấy: "Tôi ghi lòng tạc dạ việc này: Tôi học hàng ngày chăm chỉ hệt như trước đây học thần học ở Roma, và ý Chúa là sau bốn tháng, tôi đã có thể nghe hiểu những lời xưng tội, sau sáu tháng, tôi có thể giảng đạo bằng tiếng Nam Kỳ, công việc tôi sẽ tiếp tục làm trong nhiều năm." (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 67) Như vậy, Cha de Rhodes đã được chuẩn bị "để lần ra, nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa, trong tiếng An Nam". (Cadière, 1915, tr. 239)

2. Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ

Các cuốn “Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum” và “Catechismus Pro iis qui volunt suscipere Batismum”, xuất bản ở Roma năm 1651, trên thực tế, là hai tác phẩm nền tảng và không thể thay thế, đặt cơ sở cho việc ký âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh và ngoài ra còn cho chúng ta biết được hình trạng tiếng Việt thế kỷ XVII cùng sự tiến hóa của nó. Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung vào cuốn từ điển.

Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển khi nào? Không nghi ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việt Nam. Nhưng khoảng thời gian bảy năm ông ở xứ này luôn bị ngắt quãng bởi những lần đến rồi đi, từ giã rồi trở lại. Nếu lưu ý thêm rằng ôngcòn bị thúc bách bởi nhiệm vụ tổ chức truyền đạo và ông thường xuyên phải sống ở trong trạng thái bí mật hoặc nửa bí mật, một hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu ngữ nghĩa học, chúng ta có thể giả định, như Mục sư Bordreuil, rằng có lẽ ông đã làm cuốn từ điển trong thời gian khá dài tại Ma Cao, từ 1630 đến 1640: "Mặc dù ông không nói rõ trong các tác phẩm của mình, chúng tôi tin rằng Cha de Rhodes đã tận dụng khoảng mười năm yên ổn về tâm trí, nếu không phải để viết, thì ít nhất cũng là để đặt nền tảng cho hai cuốn sách quan trọng đối với Ki tô hữu An Nam và các nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giáo lý và cuốn từ điển của ông. " (Bordreuil, tr. 79) Mặt khác, thời gian ở Roma cho phép ông thực hiện thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.

Cha Lèopold Cadière, người rất am hiểu vấn đề, nhấn mạnh vốn hiêu biết tiếng An Nam sâu sắc của ông: "Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Kỳ đều không phải là bí mật đối với ông... Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác... Thêm nữa, về nghĩa của các từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam" (Cadière, 1915, tr. 238-39)

Cuốn “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio”, phần tóm tắt ngữ pháp tiếng An Nam gồm 31 trang ở cuối, "đưa ra một tổng quan vắn tắt về sự vận hành của tiếng An Nam. Ông dành 6 trong số 8 chương để bàn đến vấn đề từ loại trong tiếng Việt." (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 143). Các chương này là:
  • Chữ và âm tiết trong tiếng An Nam (Chương 1)
  • Dấu thanh và các dấu của các nguyên âm (Chương 2)
  • Danh từ, tính từ và phó từ (chương 3)
  • Đại từ (Chương 4)
  • Các đại từ khác (chương 5) 
  • Động từ (Chương 6)
  • Các thành tố bất biến trong tiếng Việt (Chương 7)
  • Một số thành tố của cú pháp (Chương 8)
Alexandre de Rhodes bám rất sát “thực tiễn ngôn ngữ của người An Nam trong các tầng lớp xã hội khác nhau." (Brefaperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 149) Nhưng ông đã ép cú pháp tiếng Việt vào cái khuôn khổ cứng nhắc của cú pháp Latinh: "Ta có thể tìm thấy những khái niệm ngữ pháp được sử dụng để mô tả tiếng Latin như cách, thì, thể, số, giống, và các giới từ. Trên thực tế đó là ngữ pháp tiếng Latin mở rộng, với khuôn khổ đã đông cứng từ nhiều thế kỷ, được áp đặt để mô tả một ngôn ngữ mới. (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 50) Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã phê phán quan điểm này và cho rằng ông không công bằng với các đặc điểm của cú pháp tiếng Việt.

Để soạn cuốn từ điển của mình, có lẽ Alexandre de Rhodes đã dựa vào những công trình ký âm Latinh tiếng Nhật (Romanji) đầu tiên của Yajiro, một người Nhật Bản cải đạo giữa thế kỷ XVI, tuy nhiên những tiền bối thực sự của ông là các linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha. Trong thông báo gửi độc giả cuốn từ điển, chính Alexandre de Rhodes cũng thừa nhận rằng ông chịu ơn những người tiền bối. Ông nói rằng ông đã làm việc trên cơ sở cuốn từ điển Việt-Bồ Đào Nha của Gaspar de Amaral và cuốn từ điển Bồ Đào Nha-Việt của Antonio Barbosa. Nhưng người thầy trước hết của ông là Francisco de Pina, cũng là một người Bồ Đào Nha. Từ năm 1622, Pina đã phát triển một hệ thống ký âm dùng chữ cái áp dụng cho ngữ âm và thanh điệu tiếng Việt, đã soạn một văn tuyển và bắt đầu viết một cuốn sách ngữ pháp (Roland, tr. 37) Năm 1624, Pina mở trường dạy tiếng Việt đầu tiên cho người nước ngoài, hai sinh viên trong số đó là Antonio de Fontes và ... Alexandre de Rhodes.

Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các quy ước ký âm của chữ Quốc ngữ cho thấy ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha, điều chắc chắn không phải không có liên quan đến thực tế là giữa 1615 và 1788, trong số 145 linh mục dòng Tên tại Việt Nam có 74 người Bồ Đào Nha, trong khi chỉ có 30 người Ý, 5 người Pháp và 4 người Tây Ban Nha. Thật vậy, bảng chữ cái tiếng Việt là một sự áp dụng vào tiếng Việt bảng chữ cái được sử dụng trong các ngôn ngữ Roman của những nhà truyền giáo.Để biểu hiện các thanh điệu, họ sử dụng các ký hiệu trong tiếng Hy Lạp. Trong bảng ký âm này, Nguyễn Phú Phong, tiếp theo AG Haudricourt, nhấn mạnh ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha. Các phụ âm có nguồn gốc Bồ Đào Nha, đó là “gi”, “ch”, “x”, “nh”, còn các nguyên âm, đó là “â”, “ê”, “ô”. (A.G Haudricourt, tr. 61, Nguyễn Phú Phong, tr. 13-17) 

Các nhà truyền giáo dòng Tên người Bồ Đào Nha và Alexandre de Rhodes đã phát triển hệ thống chữ Việt dùng chữ cái, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bỏ qua chữ Nôm. Hoàn toàn trái lại. Chữ nôm được họ sử dụng rộng rãi để truyền bá phúc âm dưới hình thức giáo lý, Thánh tích, các sách trích lời Thánh. Tên nhà truyền giáo người Ý Girolamo Majorica xuất hiện dưới 48 công trình khác nhau, tổng cộng 4200 trang[1]. Trên thực tế, như Jacques Roland đã nhấn mạnh, hệ thống chữ viết Latinh hóa trước hết là để giảng đạo và phục vụ công việc của nhà truyền giáo: "Nó cho họ một phương tiện tiếp cận khá thuận tiện với ngôn ngữ nói; nó cũng cung cấp một phương tiện trao đổi trí tuệ và giao tiếp bằng văn bản với những giới lãnh đạo người Việt của cộng đồng Kitô hữu, những người buộc phải học thứ chữ mới vì mục đích đó. Tình trạng phổ biến rất hạn chế của chữ Quốc ngữ thay đổi hết sức chậm cho đến giữa thế kỷ XVII. Khi đó, thứ chữ viết dùng chữ cái bắt đầu lan ra trong các cộng đồng Kitô giáo, có lẽ vì lý do an toàn đối lại với chính sách chống dị giáo và có lẽ cũng vì dễ sử dụng. (Jacques, tr. 51)

Nhưng trên thực tế sự sáng tạo chữ Quốc ngữ không chỉ do công sức của các nhà truyền giáo châu Âu. Họ đã không thể hoàn thành được công việc này nếu không có sự giúp đỡ của những người Kitô giáo Việt Nam, những giáo lý viên (les catéchistes), những giáo hữu (les frères) và tất nhiên, các linh mục (les prêtres). Chính họ cũng là những người chúng ta phải chịu ơn với tư cách là tác giả của những tác phẩm văn xuôi đầu tiên ở Việt Nam viết bằng ngôn ngữ "nôm na" và phiên âm bằng ký tự Latin: Lịch sử An Nam của Bento Thien (1659), Sổ ghi nhớ và chép công việc do nhà truyền giáo dòng Tên Philippe Binh viết tại Lisbonne (1822). Vai trò quan trọng của các học giả Việt Nam trong toàn bộ công trình ngữ âm học này đã bị bỏ qua một cách bất công. Các cộng tác viên bản địa thường không được nhắc đến. Chỉ có một vài bằng chứng cho thấy sự hợp tác này. Francisco de Pina đã được giúp đỡ bởi một học giả trẻ người Việt có tên thánh là Pero, một "nhà văn giỏi chữ Hán bậc nhất" (Roland, tr. 3). Alexandre de Rhodes bày tỏ lòng biết ơn bằng những lời cảm động: "Giúp tôi là một cậu bé bản địa tuyệt vời, người đã dạy tôi trong ba tuần tất cả các thanh điệu của tiếng Việt và cách phát âm tất cả các từ. Cậu không biết ngôn ngữ của tôi, tôi cũng không biết thứ tiếng của cậu, nhưng cậu có một trí thông minh tuyệt vời khiến cậu ngay lập tức hiểu những gì tôi định nói. Và trên thực tế, chỉ trong ba tuần ấy, cậu ta đã biết đọc biết viết thứ chữ của chúng tôi và biết phục vụ thánh lễ. Tôi rất kinh ngạc trước sự lanh lợi và trí nhớ của cậu”. (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 89) Còn Tổng giám mục Pigneau de Behaine, người đã viết từ điển của mình ở Pondicherry, khoảng giữa tháng 6 năm 1772 và tháng 6 năm 1773, thì được sự giúp đỡ của tám học giả Nam Kỳ.

3. Từ Sứ mệnh truyền giáo đến sự phổ biến chữ Quốc ngữ

Pigneaux de Behaine là thành viên Missions Étrangères de Paris. Trên thực tế, chính các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại là những người kế cận các giáo sĩ dòng Tên, tiếp tục phát triển chữ Quốc ngữ. Cuốn “Dictionnarum Annamitico-Latinum” của Pigneau de Behaine là cuốn từ điển đầu tiên bao gồm các ký tự Latinh và chữ Nôm không có trong cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes. Bằng cách hợp lý hóa hệ thống phụ âm và thanh điệu, ông điều chỉnh, sửa chữa và làm phong phú thêm cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes. Đức Cha Tabert sử dụng bản viết tay cuốn từ điển của Pigneau de Behaine và cho in năm 1838 tại Serampore, Bengale, dưới nhan đề “Dictionarium annamitico latinum”. Trong cuốn từ điển này, "sự đóng góp của Đức Cha Tabert không xác định rõ được... chứa khoảng 10.000 mục từ, mô tả chi tiết các nghĩa khác nhau của mỗi từ."(Moussay, tr. 2)

Trong năm 1868, Cha Legrand de la Liraye cho in cuốn “Dictionnaire élémentaire Annamite-Français” (Từ điển cơ sở An Nam-Pháp). Cuốn từ điển An Nam-La tinh của Đức Cha Tabert được chỉnh lý và hoàn thiện bởi Đức Cha Joseph Theurel, khâm mạng tòa thánh (vicaire apostolique) vùng Tây Bắc Kỳ, nhưng ông qua đời vào năm 1868, trước khi hoàn thành dự án.Cha Charles Lesserteur hoàn thành nốt công việc và công bố cuốn từ điển tại Nhà xuất bản của Mission de Ke-So, năm 1877. Cha Génibrel, thành viên MEP, xuất bản cuốn từ điển lớn của ông, “Dictionnaire Annamite-Français” (Từ điển An Nam-Pháp) năm 1898. Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1928, nhiều nhà truyền giáo thuộc MEP công bố một loạt các cuốn từ vựng nhỏ: như những cuốn của Cha Ravier, Dronet, Pilon, Barbier, Masseron. Năm 1937 xuất hiện cuốn từ điển đồ sộ Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Cha Hue, thuộc MEP (Moussay, tr. 3)

Công trình từ vựng học của các nhà truyền giáo được tôn vinh bằng việc xuất bản vào năm 1957 cuốn Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Français của Cha Eugene Gouin. Cuốn từ điển được tái bản năm 2002 bởi Nhà You Feng, đến nay vẫn được dùng để tham chiếu, mặc dù các từ điển gần đây nhất đã cập nhật sự tiến hóa của tiếng Việt viết và nói. Cần phải nhắcthêm các cuốn ngữ pháp, các sách và nhiều bài báo nghiên cứu ngữ âm và ngôn ngữ học. Như vậy, nếu các nhà truyền giáo ít dịch tác phẩm văn học, ngoại trừ cổ tích, thì họ đã rèn giũa đa số các công cụ dịch thuật. Ngoài các nhà truyền giáo, chúng ta phải thừa nhận sự đóng góp đáng kể của Georges Cordier, người đã xuất bản vào năm 1930 cuốn “Dictionnaire annamite-français à l’usage des élèves et des annamitisants”.

Chữ Quốc ngữ cũng được lọc qua cộng đồng Công giáo, vốn có thiên hướng hợp tác với những kẻ chinh phục, đặc biệt là các tác phẩm của hai học giả lớn, Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) và Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898). Huỳnh Tịnh Của, Ðốc phủ sứ đầu tiên của tỉnh, đã dịch các sắc lệnh của chính quyền Sài Gòn ra tiếng Việt, phổ biến chữ Quốc ngữ trên tờ báo tiếng Việt dùng chữ Quốc ngữ đầu tiên, tờ “Gia Định Báo”, xuất bản các truyện cổ và thần thoại sưu tầm trong khoảng 1880 – 1887 và soạn một cuốn từ điển tiếng Việt, vào năm 1897, phỏng theo từ điển tiếng Pháp. Nhưng một trong những đại kiến trúc sư của sự truyền bá chữ Quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký. Nổi tiếng là một thiên tài đa ngữ, ông học tiếng Xiêm, tiếng Miến Điện, tiếng Lào, tiếng Cambodia, tiếng Trung Quốc ở Xiêm; học tiếng Nhật, tiếng Hindi, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha, và tiếng Pháp tại Chủng viện Pénang, Singapore. Năm 1863, với tư cách là thư ký kiêm thông dịch viên, ông cùng với phái đoàn của Phan Thanh Giản đến Paris để xin chuộc lại ba tỉnh đã nhượng cho Pháp. Khi trở về, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường thông ngôn và giáo sư Trường hậu bổ. Trong số trước tác đồ sộ của con người đa tài ấy - sử gia, nhà tiểu luận nhà chính trị, nhà văn, nhà thơ và dịch giả - chúng ta chú ý trước hết đến cuốn sách ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên do một người Việt viết (1863); cuốn “Petit dictionnaire franco-annamite” (Tiểu từ điển Pháp-An Nam); các bản phiên âm Quốc ngữ một số kiệt tác văn học chữ Nôm, như Kim Vân Kiều, Phan Trần, và Lục Vân Tiên; một số tác phẩm tự sự văn xuôi, đặc biệt là “Đông kinh du ký”, xuất bản năm 1887.

Về tiểu thuyết, cũng trong quỹ đạo của Công giáo, ta thấy xuất hiện, "câu chuyện hiện đại đầu tiên khai thác cái tôi, viết bằng văn xuôi, sử dụng chữ Quốc ngữ theo lối phương Tây, trong đó mô tả các nhân vật của đương thời với cuộc sống nội tâm, gia đình và xã hội." [2] Đó là “Truyện Thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, do J. Linage xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1887. Chủ đề, bối cảnh và nhân vật đều liên quan đến Ki tô giáo: nhân vật chính, Lazarô Phiền, trốn tránh trong cuộc sống tôn giáo sau khi lầm tin vào một lá thư, giết chết cô vợ trẻ và người bạn thân nhất của mình[3].

Trong nửa đầu của thế kỷ XX sự đóng góp của các tác giả người Việt ngày càng tăng, vượt xa giới Ki tô hữu. Đặc biệt cần phải nhắc đến: Buu-Can, với “Hán Việt thành ngữ” (Hà Nội, 1933), Do-van-Dap, với “Từ điển Hán - An Nam” (Nam Định, 1933), Đào Duy Anh, “An Nam-Pháp từ điển”, có chua chữ Hán các thuật ngữ Hán Nôm (Hà Nội, 1936), Long-Dien Nguyễn Văn Minh, “Từ điển điển tích văn học sắp xếp theo bảng chữ cái” (Hà Nội, 1941), Hoàng Xuân Hãn, “Từ vựng khoa học” (Sài Gòn, 1948); Dao Văn Tien, “Từ vựng khoa học” (Paris, 1945), Đào Văn Tập, “Từ điển tổng hợp Việt Pháp”(Sài Gòn, 1950), Đào Văn Tập, “Từ điển tổng hợp Pháp-Việt Nam” (Sài Gòn, 1950), Lê Bá Kông, “Từ điển Anh-Việt” (Hà Nội, 1950), Lê Bá Kông, “Từ điển Việt-Anh” (Hà Nội, 1950), Đào Văn Tập, “Từ điển tiếng Việt” (Sài Gòn, 1951), Trần Văn Hiệp, “Từ điển Trung-Việt” (1951); Thanh-Nghị, “Từ điển Việt-Pháp” (Sài Gòn, 1952); Dao Dang Vi, “Từ điển Pháp-Việt”(Sài Gòn, 1952). (Moussay, tr. 8)

Những công cụ ngôn ngữ học này rất hữu ích cho những kẻ thực dân. Thật vậy, những kẻ thực dân có nhu cầu thực tế phải học ngôn ngữ của dân thuộc địa và đào tạo thông dịch viên, những người làm trung gian cho họ. Để làm việc này, họ dựa vào các nhà truyền giáo. Trên thực tế, Trường Thông ngôn Sài Gòn, mà kể từ năm 1861 đã nhận hàng nghìn học sinh, chỉ là một biến thể của Trường trung học Adran nơi các nhà truyền giáo giảng dạy chữ Quốc ngữ và tiếng Latinh cho khoảng 40 học sinh[4]. Cùng năm đó, tức chỉ ba năm sau sự can thiệp của Pháp, viên sĩ quan hải quân Gabriel Aubaret xuất bản, bằng chữ Quốc ngữ, cuốn Từ vựng Pháp-An Nam và An Nam-Pháp, và sau đó là Ngữ pháp tiếng An Nam, năm 1867. Tiếng Pháp đã thế chỗ tiếng Latinh, nhưng tính chất công cụ của công cuộc này vẫn còn nguyên. Trong viễn kiến này, như Paulin Vial, Giám đốc Nội vụ Nam Kỳ, đã nhấn mạnh, việc sử dụng chữ Hán là một trở ngại cho hoạt động của chính quyền thuộc địa và sự giao tiếp giữa người Pháp và người Việt: “Ngay từ những ngày đầu, chúng ta đã nhận thấy rằng chữ Hán là một rào cản giữa chúng ta và dân bản địa; việc áp dụng lối viết dùng chữ cái giúp chúng ta hoàn toàn thoát khỏi rào cản đó; chữ Hán gây khó khăn cho việc chuyển tải đến người dân các khái niệm khác nhau cần thiết cho họ, ở mức độ phù hợp với tình hình chính trị và xã hội mới."[5] Ngoài ra, ngày 22 tháng 02, 1869, Chính quyền Nam Kỳ ra một nghị định, bắt buộc sử dụng chữ Quốc ngữ trong các văn bản hành chính.

Ngoại trừ các cơ quan của chính quyền thuộc địa và những người có liên quan bằng cách này hay cách khác, chữ Quốc ngữ ban đầu bị người Việt từ chối. Đối với một số nhà nho yêu nước, đó là chữ của quân xâm lược, tức bọn dã man. Một trong số họ, ông Nguyễn Bá Học (1857-1921), trước khi trở thành một trong những cây bút hay nhất của tạp chí Nam Phong, trong tình thế buộc phải học chữ Quốc ngữ để xin việc, đã trải nghiệm cảm giác xấu hổ: "Nói chung tôi không dám đọc thành tiếng; hễ có khách đến nhà, tôi vội vàng giấu cuốn sách vào túi như thể giấu một cuốn sách bí mật, hay sách cấm – đó là cuốn học vần, có bảng 24 chữ cái Latin”. [6]

Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX, hàng loạt yếu tố đã thúc đẩy những người yêu nước Việt Nam biến chữ Quốc ngữ thành một công cụ đấu tranh giành độc lập dân tộc. Việc ký kết Hiệp định Patenôtre (1884) công nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam và cái chết của Phan Đình Phùng (1895) đánh dấu sự kết thúc cuộc kháng chiến của các quan lại triều đình, dẫn đến sự xuất hiện của một thế hệ các nhà yêu nước mới, trong đó hai lãnh tụ là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, những người đã làm quen với tác phẩm của Descartes, Montesquieu, Voltaire và Rousseau qua các bản dịch chữ Hán và được truyền cảm hứng mới từ Tân thư của các nhà cải cách Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Việc Nhật Bản đánh bại Trung Quốc (năm 1895) và Nga (năm 1905) đã thúc đẩy Phan Bội Châu phát động phong trào "Đông Du”, bí mật đưa sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản để theo học trong các “trường Tây” của người Nhật. Nhưng sau thỏa thuận Pháp-Nhật, các sinh viên này bị trục xuất. Phan Châu Trinh thì đề cao các nguyên tắc của Cách mạng Pháp trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Hai cụ "Phan" cùng một nhóm nhà Nho, với tinh thần hiện đại hóa và phê pháp Tân Nho giáo - bị coi là phản bội học thuyết của Khổng Tử - mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục vào năm 1907. Trường này dạy miễn phí chữ Quốc ngữ và thúc đẩy việc hiện đại hóa văn hóa Việt Nam. Sau chín tháng tồn tại, trường bị chính quyền thuộc địa giải thể, những người lãnh đạo, tham gia và ủng hộ bị bắt giam, đặc biệt là bị đày ra Côn Đảo. Nhưng triết lý và phương pháp của trường đã lan rộng như dầu loang trên cả nước. Từ nay, chữ Quốc ngữ, hiện đại hóa và độc lập là không thể tách rời: "Được rửa tội bởi bàn tay của những chí sĩ yêu nước, chữ Quốc Ngữ không còn là chữ của họ (tức là của người Pháp, những linh mục Công giáo), mà trở thành con đẻ của tiếng Việt và từ nay được nhân dân Việt Nam yêu mến và tôn trọng." (Nguyễn Văn Hoàn, tr. 82)

Chiến thắng của chữ Quốc ngữ cũng liên quan chặt chẽ tới sự biến mất của chế độ Khoa cử ba năm một lần, một cách tuyển dụng quan lại truyền thống của Việt Nam. Từ thời Tự Đức, các kỳ thi không còn được tổ chức tại Nam Kỳ. Hai kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Nam Định (1915) và Huế (1919). Việc xóa bỏ chế độ khoa cử không những thúc đẩy sự suy tàn của chữ Hán, mà còn phản ánh một sự thay đổi văn hóa sâu sắc: "Các cuộc thi thơ phú từ đây phải cạnh tranh với các chương trình học mới, và dần dần mất giá, bởi vì này càng ít có ích lợi để tiến thân trong xã hội mới." (Brocheux, Hémery, tr. 218)

Các nhà Nho thức thời cũng là những người ủng hộ mạnh mẽ chữ Quốc ngữ: "Đến lượt mình, các nhà Nho Việt Namcũng coi chữ Quốc ngữ như một công cụ hữu hiệu để phổ biến Tư tưởng mới, Sách báo mới và giáo khoa mới cho dân chúng ...Sự tiếp nhận chữ Quốc ngữ đi đôi với việc phổ biến các tác phẩm mang tinh thần hiện đại xuất bản với trọng trách và trongkhuôn khổ các hoạt động văn hóa và giáo dục." (Trịnh Văn Thảo, tr. 207) Tác phẩm nghiên cứu tổng hợp đầu tiên về văn minh phương Tây, “Văn Minh Tân học sách”, được xuất bản chính với logich như thế (Trịnh Văn Thảo, tr. 208)

Việc tiếp nhận chữ Quốc ngữ của người Việt không thể tách rời phong trào xóa nạn mù chữ. Theo David Marr, trong khoảng giữa năm 1920 và 1940, có 88 cuốn sách học vần khác nhau được công bố, tổng cộng 364 lần in, với 3,7 triệu bản.(Trích theo Phạm Đán Bình, tr.135) Những cuốn sách này không chỉ nhằm phổ biến chữ Quốc ngữ, mà còn để chống nạn mù chữ. Năm 1926, theo Georges Garros, cũng được trích dẫn bởi Phạm Đán Bình (tr.135), chỉ có 20.000 học sinh trong số ba triệu trẻ em ở độ tuổi đi học. Năm 1938, để khắc phục sự kém cỏi của chính quyền, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và đến khoảng năm 1945 đã tuyển dụng 1971 giáo viên cho 59 827 người học và phân phát 175 000 cuốn học vần (Phạm Đán Bình, tr.136) Chiến dịch chống nạn mù chữ đã được phát triển rộng rãi nhờ Mặt trận Cách mạng (Việt Minh). "Từ tháng 9 năm 1945 và tháng 12 năm 1946, Bình dân học vụ đã huy động 95.665 giảng viên tình nguyện để dạy đọc và viết cho2.520.678 người. Đến cuối năm 1958, có thể khẳng định rằng 93,4% dân số các vùng đồng bằng, ở độ tuổi từ 12 đến 50, đã thoát nạn mù chữ”. (Phạm Đán Bình, tr.136).

Chữ Quốc ngữ, như vậy, đã trở thành phương tiện chuyên chở của hiện đại hóa và bản sắc dân tộc: "Một hình ảnh phổ biến trong dân chúng thể hiện cảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là con một nhà Nho yêu nước, đứng cạnh bảng đen, dạy trẻ em nông thôn đọc và viết chữ Quốc ngữ. Chữ Nôm bị xóa dần cho đến khi biến mất hoàn toàn, còn thứ chữ của những nhà truyền giáo và người Pháp đã trở thành chữ viết duy nhất của mọi người Việt Nam: "chữ Quốc ngữ”. Được sử dụng trong mọi lĩnh vực, chữ Quốc ngữ đã được tôn vinh như là phương tiện chuyên chở ý thức hệ”. (Jacques, tr. 51)

4. Kết luận

Để kết thúc bài viết này, chúng ta hãy trở lại với Alexander của Rhodes và sự công nhận ngày càng tăng của chính quyền Việt Nam về vai trò của ông. Thật vậy, sau năm 1945, sự chối bỏ thời kỳ thuộc địa đã dẫn đến sự phủ nhận sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, "Sự Latinh hóa văn bản được coi là một hành động chính trị thù địch, một ý đồ phá hủy cấu trúc văn hóa nhằm chia rẽ văn hóa cộng đồng quốc gia và áp đặt sự thống trị nước ngoài." (Jacques Roland, tr. 24)

Theo logich này, đài tưởng niệm Alexander de Rhodes đã bị gỡ bỏ: "Thật không may, cái đài tưởng niệm ấy đã biến mấtvào một ngày cách đây khoảng ba mươi năm. Ai đã gỡ nó? Không ai biết! Một hành động chính trị hay một sự phá hoại đơn thuần, bí ẩn ấy vẫn chưa được sáng tỏ. Vậy đó, tấm bia, mặc dù khá lớn, đã biến khỏi bệ... Một lần người ta nhìn thấy nó trong một hiệu chữa khóa, nơi nó được dùng làm...đe. Sau đó, một nhà buôn chè dùng nó để bầy hàng – thật tiện để vừa uống trà vừa học! Một số người thậm chí còn nhìn thấy nó bên bờ sông Hồng…Vào những năm 1980, tại khoảng không gian dành cho Alexandre de Rhodes mọc lên một tượng đài cách mạng trắng tinh khôi tuyệt đẹp, tôn vinh những người yêu nước: ba pho tượngngười chiến sĩ cỡ lớn, một trong số đó là phụ nữ. Trên bệ, có dòng chữ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh." (Le courrier du Việt Nam)

Phải đến năm 1993 Alexander de Rhodes mới được phục hồi danh dự. Năm đó, Câu lạc bộ sử gia đã tổ chức nói chuyện về Alexander Rhodes và Giáo sư Nguyễn Lân đã nhắc đến đài tưởng niệm giáo sĩ người Pháp. Theo ông, đáng lẽ không nên phá đài kỷ niệm ấy. “Le courrier du Viêt Nam” dùng từ « enlèvement” (gỡ bỏ): “Hành động này cho thấy một nhận thức thiển cận,sự thiếu hiểu biết về lịch sử và, dù sao đi chăng nữa, cũng không xứng đáng với truyền thống của dân tộc ta. Alexandre de Rhodes, chẳng phải là ông đã làm việc cho người Việt Nam hay sao? Chữ Quốc ngữ, thứ chữ dễ học hơn nhiều so với chữ tượng hình, đã giúp phần lớn dân chúng tiếp cận tri thức và thông tin... Và nhà truyền giáo cũng là một nhà nhân văn chủ nghĩa, gần gũi với dân chúng." (Le courrier du Việt Nam).

Đã đến lúc trả lại cho Alexander de Rhodes không gian kỷ niệm tại trung tâm thủ đô nước Việt. Giáo sư Nguyễn Lân đề xuất để xây dựng một bức tượng bán thân ở công viên Tao Đàn ở phía trước cửa trường Đại học Dược Hà Nội. Nhưng cũng có thể đặt lại tấm bia cũ bây giờ đang được lưu trữ trong kho của Ban quản lý các di tích lịch sử và du lịch thủ đô. Năm 1995, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức một hội thảo chuyên đề về cuộc đời và sự nghiệp của nhà truyền giáo ngườiPháp. Trong lời phát biểu của ông về đóng góp của giáo sĩ dòng Tên người Pháp tại Việt Nam, TS. Nguyễn Duy Quý kết luận: "Chúng tôi dự định đặt tấm bia cũ trong khuôn viên Thư viện Quốc gia. Chúng tôi cũng muốn khôi phục lại tên của nhà truyền giáo nổi tiếng cho một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh đã bị đổi tên vài thập kỷ trước... (Le courrier du Viêt Nam)

Như vậy, công lao của Alexandre de Rhodes đã được chính quyền Việt Nam công nhận thỏa đáng.

Ngô Tự Lập dịch (từ tiếng Pháp)

BIBLIOGRAPHIE

I. Ouvrages d’ Alexandre de Rhodes
1. Catechismus Pro iis qui volunt suscipere Batismum in octo dies divisus (Phep giang tam ngay cho ke muân chiu phep rua, ma be do dao thanh duc Chua bloi), Ope scra Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus? Ab Alexandro de Rhodes è Societate IESU ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Romae, Typis Sacrae Congregationis de Propaganda Fide, Superiorum permissu.s.d. 323 p, Imprimatur, Rome, 8 Juillet 1651.
2. Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum ope Sacra Congregationis de Propaganda Fide in lucem editum ab Alexandro de Rhodes E Societate Iesu ejusdemqu Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Romae, Typis et sumptibus ejusdem Sacr. Congregat. MDCLI (1651), SuperiorumPermissev, 88ff, 450p, deux colonnes +Linguae Annamiticae sev Tunchinensis bevis Declaratio, pp 1-31,
3. Histoire du royaume du Tonkin par A. de Rhodes, Revue Indochinoise, 1908, 2° semestre, 30 juillet, 15 août, 31 août, 15-30 septembre. Traduction de Tunchinensis historiae libri duo quorum altero status temporalis huius Regni …, Lyon, 1652.
4. Voyages et missions du Père Alexandre de Rhodes de la Compagnie de Jésus, en la Chine et autres royaumes de l’orient. Nouvelle édition par un père de la même Compagnie (Le Père Auguste Carayon), Paris, Julien Lanier et cie, 1854 pp VII-448.

II. Dictionnaires et grammaires [7]

1. Pigneau de Behaine Joseph Georges (1741-1799) membre du Séminaire des Missionnaires de Paris, évêque d’Adran, vicaire apostolique de Cochinchine, de Cambodge, de Ciampa, Vocabularum annamitico-latinum, 1772, 729 p, Edition en fac-similé du manuscrit original, Documents des Archives des Missions Étrangères de Paris, 2001, 729 p, 34,5 x 24 (Traduction en vietnamien : Tu vi Annam Latinh préfacé par Nguyên Dinh Dâu, Thanh Pho Hô Chi Minh, Nha xuât ban Tre, 1999, 574 p, 14 x 20.
2. Taberd A.L (1794-1840), Dictionnarum annamitico-latinum, primum incetum ab P.J Pigneaux, episcopo adranensi, vicario apostolico Cocincinae, dein abslutum et editum a I.L Taberd, episcopo isauropolitano, vicarioapostolico Cocincinae,Serampore, EX Typis, J.C Marsham, 1838, XLVI, 7322-128 p, 28cm. Réimprimé au Viêt Nam en 2004 par le Centre d’études de la culture nationale.
3. Aubaret Gabriel, Grammaire annamite, suivie d’un vocabulaire français-annamite et annamite-français, Paris, Imprimerie Impériale, 1867.
4. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus, Abrégé de grammaire annamite, Saïgon, Imprimerie Impériale, 1867.
5. Legrand de la Liraye 1868 Dictionnaire élémentaire Annamite-Français, Saïgon, Imprimerie Impériale, 184 p.
6. Theurel, Mgr Joseph, Dictionnarum annamitico-latinum, ex opere Taberd con tans, nec no ab J.S Theurel, episc, A canthensi, vicario apost, Tunquini occidantalis recognitum et notabiler adauctumad quod ac-cessit, Appendix de vocibus sinicis et locutionibus minus usitatis, Nin Phu, Ex Typis Missionis Tunquini occidentalis, 1877, XXX-566-71 p
6. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus, Grammaire de la langue annamite, Saïgon, C.Guilland et Martinon, 1883, 304 p.
7. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus, Guide de la conversation annamite. Sách tâp nói chuyên tiêng Annam vá tiêng Phangsa. 2e édition. Saigon, Ban-in Nhà Hàng C. Guilland et Martinon, 1885.
8. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus Petit dictionnaire franco-annamite, Nouvelle édition ornée du portrait de l'auteur illustrée de 1250 gravures extraites du Petit Larousse illustré. Saigon, F.-H. Schneider, 1911 (Première édition, 1887).
9. Huynh Tinh Cua, dit Paulus Cua, Dictionnaire annamite ... Dai nam quâc âm tu vi. Tham dung chu nho có giai nghia, có dan chúng, muon 24 chu cái phuong Tây làm chu bô. Deux volumes. Saigon, Rey, Curiol & Co., 1895-1896.
10. Génibrel, J.MF, Dictionnaire annamite-Français comprenant 1°: tous les caractères de la langue annamite vulgaire avec l’indication de leurs divers sens propres et figurés et justifiés par de nombreux exemples, 2° les caractères chinois nécessaires à l’étude de Thu Tho, (=Quatre Livres classiques chinois), 3° la flore et la faune de l’Indochine par JMF Genibrel, missionnaire apostolique, 2° édition refondue et considérablement augmentée, Saïgon, Imprimerie de la Mission à Tân Dinh, 1898, 987 p.
11. Hue, Gustave, MEP, 1937 Dictionnaire Annamite-Chinois-Français, Hanoi, Imprimerie Trung Hoa Thiên Ban, 1937, 1199-7 p.
12. Cordier Georges, Dictionnaire annamite-français à l’usage des élèves et des annamitisants, Hanoi, Imprimerie Tonkinoise, 1930, 1433 p.
13. Gouin Eugène, Dictionnaire vietnamien, chinois, français, Saïgon, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1957, réédité en 2002 par les Editions You Feng, en collaboration avec Les Indes Savantes et les Missions Étrangères de Paris.

III. Ouvrages et articles

1. Bordreuil, Daniel, Etude biographique schématique sur le R .P Alexandre de Rhodes, S.J, (1591-1660) apôtre de l’Annam au XV11ème Siècle, Thèse de Maîtrise en Théologie soutenue le 8 Avril 1954, Faculté Libre de Théologie Protestante, d’Aix en Provence. 
2. « Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien (1ère période), Lê thi Xuyên, Pham Thi Quyên, Do Quang Viêt, Nguyên Van Bich, (Université Paris VII, Univerité Nationale de Hanoi), Histoire Épistémologie Langage, 2004, pp 137-158. 
3. Brocheux Pierre, Hémery Daniel, Indochine, la colonisation ambiguë, Parsis, éditions la découverte, 2004
4. Cadière Léopold, Missions Étrangères de Paris, «Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le père de Rhodes», Bulletin des Amis du Vieux Hué, II, 1915, pp 231-250.
5. Cadière Léopold, «Le Titre divin en annamite. Etude de terminologie chrétienne», Revue d’histoire des missions,supplément au n°de Décembre 1931, pp 1-27.
6. Cadière Léoplod, « Iconographie du Père de Rhodes », Bulletin des Amis du Vieux Hué, XXV, 1938, pp 27-62.
7. Francis, John de, Colonisation an language policy, La Haye, 1977
8. Haudricourt, André Georges, « Origine des particularités de l’alphabet vietnamien », Bulletin Dân Viêt, 3, EFEO, 1949, pp 61-68.
9. Jacques, Roland, «Le Portugal est la romanisation de la langue vietnamienne. Faut-il réécrire l’histoire», Revue d’histoire de la France d’outre-mer, T 85, 1998, n° 318, pp 21- 54.
10. Le courrier du Viêt Nam, 4, Juillet 2004, Hông Nga et Sébastien.
11. Moussay Gérard, Les dictionnaires vietnamiens du XVIIème au XXIéme siècle, Texte inédit aimablement communiqué par l’auteur, 8 p.
12. Nguyên Phu Phong, «Regards comparatifs sur les deux écritures vietnamiennes», Cahiers d’études vietnamiennes, 15, 2001, pp 1-22.
13. Nguyên Van Hoan, «Le quôc ngu, nouvel instrument de la langue vietnamienne», Approches Asie, n° 7, Mars 1984, pp 70-88)
14. Phan Dan Binh, «Romanisation de l’écriture et alphabétisation au Viêt Nam. Bilan et problèmes», in Illetrismes: variations historiques et anthropologiques, sous la direction de Bernard Frankael, Paris, BPI, Centre Georges Pompidou, 1993, pp 125-137.
15. «Souvenir d’ Alexandre de Rhodes (1591-166)», 37ème cahier de la Société de géographie de Hanoi, Hanoi, G.Taupin, 1941, tirage à part du n°41 de la revue Indochine, spécialement réimprimé par les Amis du Vieux Hanoi et les membres du Comité du Monument d’Alexandre de Rhodes, 15p.Cf notamment les articles suivants: R.Bourgeois, Alexandre de Rhodes, pp 3-5, P.Boudet, Les œuvres du R.P Alexandre de Rhodes, pp 6-8, Nguyên Van Tô, Le père Alexandre de Rhodes et la transcription de Quôc Ngu, pp 9-10. de Francis, Colonisation and language policy, La Haye, 1977. 
16. Trinh Van Thao, Vietnam. Du confucianisme au communisme, Paris, L’Harmattan, Logiques sociales, 2007. 
17. Vietnamese Lexicography, Nguyên Dinh Hoa, http: //www.vietnamjounal.orgarticle 51
18. Vu Khanh Tuong, Les missions jésuites avant les missions étrangères au Viêt Nam (1615-1665), Travail présenté pour l’obtention du Doctorat en Théologie, Institut Catholique de Paris, 1956. 

-------------------------------
[1]Alexandre Lê, Etude du Nôm, écriture idéographique de la langue vietnamienne : son histoire, sa structure et sa valeur littéraire , Paris, I.N.A.L.C.O, 1995, D.E.A de langue vietnamienne, tr. 61-60. 
[2] Pham Dan Binh, Littérature vietnamienne et apports français au début du 20°siècle, in « Littérature d’Extrème-Orient au xx° siècle », Arles, Editions Philippe Picquier, 1993, p 57.
[3] Pham Dan Binh , đã dẫn. 
[4]. Phan Ngoc, tr. 131 . 
[5] Lettre de Paulin Vial adressée au Gouverneur de Saïgon le 15 Janvier 1878 in J.Bouchot, Petrus Truong Vinh Ky, érudit indochinois, Saïgon, 3°édition, 1927, tr. 48 . Trích theo Nguyên Van Hoan), Tạp chí Nam Phong, n°50, 1921, p 78 . 
[6] Lược sử cụ Nguyễn Bá Học (Biographie succincte de Nguyễn Bá Hoc , trích theo Nguyễn Văn Hoàn, đã dẫn. tr. 80
[7] Les dictionnaires et grammaires postérieurs au dictionnaire d’Alexandre de Rhodes, sont citéspar ordre chronologique.
-------------------------------
(*) Nguồn: viet-studies.info, Alexandre de Rhodes có phát minh ra chữ quốc ngữ?(viet-studies 17-9-11)

Wednesday, September 28, 2011

Lăng tẩm Huế: Một thành tựu rực rỡ của nền Kiến trúc cổ Việt Nam

[MCĐV] Ngoài sông Hương, Huế còn thu hút du khách với những công trình kiến trúc lăng tẩm vừa trang nghiêm vừa hùng vĩ, với vẻ đẹp "chẳng nơi nào nào có được".

Cách đây gần 80 năm, một người Tây Phương tên là Ph. Eberhard đã viết: "Huế là một trung tâm du lịch hấp dẫn, nơi có Kinh thành, Hoàng thành và lăng tẩm, có một sức cuốn hút sự chú ý đặc biệt của du khách và các nhà mỹ thuật. Chỉ riêng lăng tẩm các vua nhà Nguyễn không thôi cũng đã đủ có giá trị đối với cuộc du lịch rồi, theo ý kiến chung lăng tẩm Huế đẹp hơn lăng tẩm các vua nhà Minh ở Trung Quốc".

Mãi cho đến ngày nay, ý kiến chung của những nhà làm công tác văn hóa nghệ thuật trong nước và trên thế giới cũng khẳng định rằng lăng tẩm Huế là một thành tựu rực rỡ của nền kiến trúc cổ Việt Nam. Triều Nguyễn (1802-1945) có đến 13 vua,
nhưng vì những lý do lịch sử phức tạp khác nhau cho nên hiện nay ở Huế chỉ có 7 khu lăng tẩm. Đó là các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức (ở đây còn có mộ vua Thành Thái, Duy Tân), Đồng Khánh và Khải Định. Theo ý đồ quy hoạch kiến trúc kinh đô nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX, 7 khu lăng ấy nằm trong một vùng đất khá riêng biệt ở phía Tây Huế, nhìn từ vị thế Trung ương của cố đô.

Lăng Gia Long

Lăng Gia Long hay còn gọi là Thiên Thọ Lăng được xây dựng từ năm 1814 đến năm 1820, nằm giữa quần núi Thiên Thọ gồm 42 đồi, núi lớn, nhỏ, thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đây là nơi yên nghỉ của vua Gia Long (1762 - 1820), vị vua đầu tiên trong số 13 đời vua nhà Nguyễn.

Lăng Vua Gia Long
Có hai hướng để bạn đến thăm lăng. Một là xuôi thuyên theo dòng sông Hương khoảng 18km rồi cập bến, hoặc đi theo đường bộ chừng 16km, xuống bến đò Kim Ngọc, đi thêm khoảng 2km nữa. Gió từ sông cùng bóng mát của những hàng thông, cây xanh mướt, tạo nên một không gian trong mát, tĩnh mịch cho quãng đường đi bộ từ bến đò vào lăng.


Lăng Gia Long có chu vi hơn 11 nghìn mét, trước mặt có núi Đại Thiên Thọ làm tiền án, hai bên tả hữu mỗi bên có 14 ngọn núi chầu vào tạo thành thế “tả thanh long” và “hữu bạch hổ”. Trong khuôn viên, trước mặt lăng có hồ bán nguyệt, sau hồ là sân chầu, tiếp đến là sân tế chia làm 6 bậc cao dần, cuối cùng là Bửu Thành, nơi đặt mộ phần của Vua và Hoàng hậu.

Thời khắc tham quan lăng đẹp nhất là vào buổi chiều, khi hoàng hôn lấp lánh trên các hồ nước, những tán lá thông đang khẽ đưa theo gió soi bóng xuống mặt hồ. Vẻ đẹp u tịch của thiên nhiên hòa với nét uy nghi của đồi núi, kiến trúc trong lăng khiến con người cảm thấy nhỏ bé, chơi vơi.

Lăng Minh Mạng

Cách trung tâm thành phố 12km, nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, lăng Minh Mạng hay còn gọi Hiếu Lăng là nơi yên nghỉ của vua Minh Mạng, vị vua thứ hai của nhà Nguyễn.

Lăng Minh Mạng rộng 26ha, là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ nằm trên một khu đồi núi, sông, hồ thoáng mát. Lăng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành.

Lăng Vua Minh Mạng
Trước lăng có 3 cửa, chính giữa là Đại Hồng Môn (chỉ mở một lần duy nhất khi rước di thể của vua Minh Mạng nhập lăng), hai bên là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Bên trong Đại Hồng Môn có sân chầu, hai bên có hai dãy tượng đá tạc hình bá quan văn võ và voi, ngựa đứng chầu.

Lăng Thiệu Trị

Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách thành phố Huế chừng 8 km. Đây là lăng có thời gian xây dựng ngắn nhất (hoàn tất trong 10 tháng) trong số 7 lăng của các vua Nguyễn và cũng là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc.

Lăng Vua Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị cũng không xây dựng La Thành (bức tường bao quanh bảo vệ) như lăng Gia Long hay dựa vào thế núi đồi tạo nên một la thành tự nhiên như Minh Mạng, La Thành của lăng là những đồng lúa, vườn cây xanh rờn, mang đến cho khu lăng vẻ thanh thoát, yên bình.

Lăng Tự Đức

Lăng Tự Đức hay Khiêm Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Lăng được xây dựng từ năm 1864 đến năm 1867 trên diện tích 475ha. Lăng Tự Đức mang yếu tố khoáng đạt, đường nét mềm mại phản ánh tâm hồn lãng mãn của vị vua thi sĩ này.


Ngoài mục đích là nơi chôn cất khi qua đời, đây còn là vua đến nghỉ ngơi, đọc sách, ngâm thơ… nên cảnh quan của lăng tựa như một công viên rộng lớn với tiếng nước chảy, hồ nước thơ mộng, hàng thông xanh ngát. Thậm chí ở đây còn xây dựng cả nhà hát và nơi ở của các phi tần mĩ nữ.


Tại lăng Tự Đức có tấm bia đá lớn khắc bài “Khiêm Cung kí” dài 4.935 chữ do vua Tự Đức soạn thảo để tự nói về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình.

Lăng Đồng Khánh

Lăng Ðồng Khánh thuộc thôn Thượng Hai, xã Thuỷ Xuân, TP. Huế. Được xây dựng qua 4 đời vua và kéo dài từ năm 1888 - năm 1923, lăng vừa mang lối kiến trúc phong kiến cổ điển vừa chịu ảnh hưởng của kiến trúc Tây Âu.

Cổng Lăng Vua Đồng Khánh
Sự phân tầng này thể hiện rõ ở khu tẩm điện với lối kiến trúc “Trùng Thiềm Điệp Ốc” (Nhà có nhiều bộ mái nối tiếp nhau). Chính điện và các nhà cửa phụ vẫn còn những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy với trang trí tứ linh, tứ qu,... Song trong Ðiện Ngưng Hy xuất hiện hệ thống cửa kính nhiều màu và những phù điêu bằng đất nung với các trang trí rất dân giã như “Ngư ông đắc lợi”, “Gà chọi”…

Lăng Dục Đức

Lăng Dục Đức, tên chữ là An Lăng, tọa lạc ở phường An Cựu, thành phố Huế. Lăng do vua Thành Thái cho xây dựng vào năm 1889. Lăng là nơi an tang các vua Dục Đức, vua Thành Thái và vua Duy Tân.



Lăng Dục Đức rộng khoảng 1ha, gồm khu lăng mộ và khu tẩm thờ đặt song song với nhau. Lăng quay mặt về phía tây bắc, lấy đồi Phước Quả làm tiền án, núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thủy.

Bên trong lăng không có Bi Đình hay tượng đá như các lăng vua khác, thay vào đó là kiểu nhà Huynh Ốc. Đáng chú ý là tấm bình phong trước mộ vua có chữ “song hỷ” nghĩa là “vui” đắp bằng sành sứ gây nhiều tò mò và thắc mắc cho các nhà sử học cũng như du khách.


Ngoài là nơi an nghỉ của 3 vị vua, lăng còn có hơn 39 tẩm mộ ông hoàng bà chúa cùng 121 ngôi mộ đất của những người thuộc Ðệ Tứ Chánh phái Nguyễn Phước tộc (hệ phái của vua Dục Ðức).

Lăng Khải Định

Trong số các lăng triều Nguyễn, lăng Khải Định hay còn gọi Ứng Lăng là công trình duy nhất có lối kiến trúc pha trộn giữa Đông và Tây. Đây là nơi yên nghỉ của vua Khải Định, vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng tọa lạc trên núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê), thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách thành phố Huế khoảng 10km về phía Tây Nam.

Lăng Vua Khải Định
Tuy có kích thước khiêm tốn hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng lăng được xây dựng tỉ mỉ, kỳ công nên tốn nhiều thời gian cũng như kinh phí hơn các lăng khác (từ năm 1920 - 1930). Sử sách ghi lại để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng.

Bên trong điện thờ

Điểm nổi bật của lăng Khải Định là sự pha trộn giữa nhiều trường phái kiến trúc khác nhau như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… Đặc biệt, lăng Khải Định nổi tiếng với 3 bức bích họa “cửu long ẩn vân” tuyệt đẹp được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.

Nhiều thể hiện trên di tích tại chỗ cho thấy vua là đấng chí tôn được biểu trưng bằng hình ảnh mặt trời cao cả. Và hình ảnh mặt trời lặn biểu thị khái niệm vua băng hà. Khi đã băng hà, vua cùng mặt trời đi về phía tây để an giấc ngàn thu nơi vùng núi đồi tĩnh mịch. ở góc trời yên ả đó có dòng sông Hương êm đềm thơ mộng chảy qua. 

Theo quan niệm “tức vị trí lăng” phần lớn các lăng tẩm đều được xây dựng khi nhà vua còn ở trên ngai vàng. Hầu hết nhân lực, vật liệu nhà nước và năng lực của chính nhà vua nữa, đều được đổ ra trong nhiều năm để thực hiện. Chủ đề tư tưởng nghệ thuật do nhà vua đưa ra, đồ án kiến trúc do vua duyệt và chính nhà vua cũng thường đi giám sát thi công.

Điều mà các nhà kiến trúc dưới thời nhà Nguyễn phải tuân thủ triệt để trước tiên là nguyên tắc phong thủy. Lăng tẩm nào cũng phải theo đúng những quy luật liên quan đến các thực thể địa lý thiên nhiên: sông núi, ao hồ, khe suối, và nhất là “huyền cung” ở trung tâm điểm của mặt bằng kiến trúc phải tọa đúng long mạch. 

Đi tham quan nghiên cứu lăng tẩm Huế, bạn không nên chỉ chú mục vào các công trình kiến trúc gần gũi trước mắt trong phạm vi vòng la thành diện tích hơn chục ha, mà phải phóng tầm mắt ra xa cả chục km để thấy hết các thực thể địa lý thiên nhiên gắn liền với nó và thưởng thức được vẻ hoành tráng của cả tổng thể rộng hàng trăm, hàng nghìn ha mà lăng tẩm có ảnh hưởng về mặt nghệ thuật. Ít ai nghĩ rằng ngọn núi Gia Long rộng tới 2,875 ha và có đến 42 ngọn núi chầu vào trung tâm điểm là mộ địa.

Vùng lăng Thiệu Trị rộng 475 ha, có ngọn núi đứng làm tiền án cách xa lăng đến 8km. Trước mặt lăng Khải Định là dòng Khe Châu Ê chảy khuất khúc từ trái sang phải rồi lại rẽ lại theo thế “chi huyền thủy”, và hai bên là dãy núi Chóp Vung và Kim Sơn nằm trong tư thế rồng chầu hổ phục. 

Trong quyển “Mỹ thuật Viễn Đông” Jeannine Auboyer nhận xét rằng: Người Việt Nam đã biết lựa chọn những khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp nhất để xây dựng những công trình kiến trúc thờ phụng của mình. Điều này được chứng thực rõ ràng nhất qua nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm Huế. Nơi đây công trình kiến trúc nào cũng nằm trên một ngọn đồi cỏ non dưới rừng thông yên ả, ẩn mình sau nhưng cây đại thụ cành lá sum suê hay soi mình xuống mặt hồ trong xanh phẳng lặng. Và toàn cảnh bao phủ một màu xanh tươi mát chan hòa.

Năm 1918, Phạm Quỳnh đã nhận xét trên tạp chí Nam phong: “Lăng đây là gồm cả một màu giời, sắc nước, núi cao, rừng rậm, gió thổi, ngọn cây, suối reo hang đá... Lăng đây là bức cảnh thiên nhiên tuyệt khéo. Lăng đây là cái nhân tô điểm cho sơn thủy... không biết lấy nhời gì mà tả được cái cảm lạ, cái êm đềm vô cùng... Không đâu cái công dựng đặt của người ta với cái vẻ thiên nhiên của giời đất khéo điều hòa nhau bằng ở đây, cung điện đình tạ cũng một màu, một sắc như núi non, cây cỏ...”. 

Kiến trúc cổ Việt Nam nói chung là kiến trúc phong cảnh, còn gọi là kiến trúc cảnh vật hóa (architecure paysagée). Nghệ thuật kiến trúc này đã đạt đỉnh cao ở lăng tẩm Huế. Vào năm 1981, sau khi đến thăm Huế, ông Tổng Giám đốc UNESSCO Amadou-M’Bow đã viết: "Lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn... biểu hiện những biến tấu độc đáo trên một chủ đề thống nhất.

Mỗi một lăng vua với đặc tính riêng của nó là một thành tựu tuyệt mỹ của nền kiến trúc cảnh vật hóa, và mỗi lăng tẩm khơi dậy trong cảm xúc khách quan một âm vang đặc biệt. Lăng Gia Long giữa một khu vực thiên nhiên bao la, gợi lên một ấn tượng hùng tráng và thanh thản, lăng Minh Mạng đầy vẻ trang nghiêm và lăng Tự Đức đem đến cho du khách một hồn êm thơ mộng".

Gần đây, một nhà bình bút của ủy ban UNESSCO thuộc trung tâm văn hóa á châu đã nhận định một cách vắn tắt nhưng rất thâm uyên và chính xác về triết lý trong kiến trúc lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn như sau: “Với cảnh thiên nhiên chóng qua trên dương thế, các lăng tẩm uy nghi đã được xây dựng để làm chốn thiên đường vĩnh cửu mai sau”. Kiến trúc lăng tẩm Huế có ngôn ngữ riêng biệt và ý nghĩa sâu xa của nó. 

Có hiểu thấu thì mới giải thích được tại sao ở chốn âm phần lại có cả hệ thống cung điện để ăn chơi hưởng thụ, có cả nhà hát để thưởng thức nghệ thuật sân khấu và sắc đẹp giai nhân, mới lý giải được tại sao phần nội cung Thiên Định ở lăng Khải Định giống như một viện bảo tàng mỹ thuật trông vui mắt, và mới biết được tại sao khắp các lăng tẩm đều trang trí rất nhiều hoa văn chữ “thọ” (nghĩa là sống lâu) và chữ “hỷ” (nghĩa là vui mừng).

Vào thăm lăng tẩm Huế, người ta không hề gặp những hình ảnh gây ấn tượng chết chóc, sợ hãi, lạnh lùng như vào viếng “Minh thập tam lăng” ở Trung Quốc, người ta cũng không cảm thấy mình trở nên nhỏ bé, bị áp lực nặng nề, và bị “dọa nạt” như khi đứng trước những Kim Tự Tháp quá đồ sộ của các Hoàng đế Ai Cập. Trong lăng tẩm Huế, con người vẫn là chủ để của kiến trúc và thiên nhiên. ở đây, người ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc gần gũi, có được cảm giác lâng lâng thích thú giữa thực và mộng.

----------------------------------------------
Lăng tẩm Huế - kỳ quan nghệ thuật kiến trúc Việt

“Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được/ Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Đúng là hiếm một nơi nào lại có vẻ đẹp trữ tình như xứ Huế - một thành phố có hai di sản thế giới - với những thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền đài, chùa miếu cổ kính kết hợp hài hoà với không gian cảnh quan sông núi thơ mộng và phong tục tập quán, vốn văn hoá truyền thống của người dân đất cố đô.

Chính vì vậy, chúng tôi - những hướng dẫn viên du lịch - đã có nhiều lần đưa du khách tới thành phố này, vẫn chọn Huế là điểm đến dài ngày nhất trong hành trình dọc theo các di sản miền Trung để trau dồi thêm kiến thức thực tế cho nghề nghiệp.

Trong những ngày ngang dọc mảnh đất thần kinh xưa, khác với những lần trước chỉ tập trung vào các cung điện, đền chùa, thành quách... lần này, những lăng tẩm cổ kính và thâm nghiêm của nhà Nguyễn đã làm mê hoặc chúng tôi. Có dành nhiều thời gian trải nghiệm và thu lượm, chúng tôi mới hiểu tại sao những công trình này lại được coi là một thành tựu rực rỡ của nền kiến trúc cổ VN. 

Triều Nguyễn có đến 13 vua, nhưng hiện ở Huế chỉ có 7 khu lăng tẩm cho 9 vị vua. Đó là các lăng: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Dục Đức, Khải Định. Một điều đặc biệt là hầu hết các lăng tẩm được xây khi các vị vua đang còn trên ngai vàng. Có thể thấy, mỗi lăng là một công trình kiến trúc thể hiện tiêu biểu cho tính cách của mỗi ông vua có lăng. Nhưng có lẽ, hai khu lăng tiêu biểu nhất là lăng Tự Đức và lăng Khải Định.

Lăng Tự Đức nằm trong một thung lũng, cách trung tâm TP.Huế 5km – được xây dựng trong thời gian từ 1864 - 1867 với kiến trúc cầu kỳ, uốn lượn, phong cảnh sơn thủy hữu tình đúng như tính cách của một ông vua thi sĩ. Tự Đức – hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn - đã xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Đây có thể coi là hành cung thứ hai của Vua Tự Đức.

Theo nhiều tài liệu và lời kể của người dân địa phương, lúc mới xây, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn “chày vôi” của những người thợ xây lăng, bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.

Lăng như một công viên lớn, gồm hai phần chạy song song với nhau là tẩm điện và lăng mộ với gần 50 công trình kiến trúc đều có chữ khiêm ở đầu. Nhưng có lẽ, đáng chú ý trong tẩm điện là điện Hoà Khiêm - nơi thờ hoàng đế và hoàng hậu, hiện còn chứa nhiều đồ ngự dụng và các tác phẩm mỹ thuật đương thời.

Trong khu lăng mộ, chúng tôi ấn tượng nhất là Bi Đình bên những cây đại cổ thụ với tấm bia bằng đá nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung ký” do Tự Đức soạn, dài 4.935 chữ, là bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, sự nghiệp. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc toả sáng.

Chia tay lăng Tự Đức - một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình theo quan niệm phương Đông. Chúng tôi đến thăm khu lăng Khải Định - một công trình công phu, lộng lẫy, tinh xảo với sự kết hợp của hai nền kiến trúc, văn hoá Đông – Tây thể hiện buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Vua Khải Định. Từ khi lên ngôi, ông đã say sưa với việc xây lăng mộ cho mình. Khải Định trị vì được 9 năm thì băng hà (1925), thọ 40 tuổi.

Lăng Khải Định cách TP.Huế 10km, được xây suốt từ năm 1920-1931 – là lăng xây tốn kém nhất trong các lăng của Huế với rất nhiều vật liệu nhập ngoại. Tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc và được chia ra thành 3 cấp.

Qua 3 lớp nền, chúng tôi đến với công trình tiêu biểu nhất là cung Thiên Định – công trình ở vị trí cao nhất của lăng và được xây rất tinh xảo. Toàn bộ nội thất đều được trang trí bằng nghệ thuật ghép sành sứ đạt tới đỉnh cao với những môtíp hết sức quen thuộc như: Tranh tứ quý, bát bửu, ngũ phúc... Còn dưới nền lát gạch men hoa và trên trần vẽ cửu long ẩn hiện trong mây. Cả không gian 6 mặt đã tạo nên một thế giới nghệ thuật đặc sắc cho di tích này.

Qua chuyến đi thú vị này, chúng tôi thấy lăng Tự Đức và lăng Khải Định thực sự là những công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc tiêu biểu. Nó không chỉ làm phong phú và đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế mà còn góp những giá trị không nhỏ cùng với các danh lam thắng cảnh, nét văn hoá độc đáo của cố đô Huế, biến nơi đây thành một miền đất đầy quyến rũ và lôi cuốn du khách trong và ngoài nước.

Theo Hồng Nguyên - Lao động
----------------------------------------------
Quý Hải Sưu tầm & tổng hợp
Nguồn tổng hợp:
[2] Vẻ đẹp kiến trúc lăng tẩm ở Huế - Theo Bưu điện Việt Nam/cacdongho.vn

Popular Posts